Ngỗng sư tử nguồn gốc xuất xứ từ Quảng Đông – Trung Quốc. Chúng có khả năng thích nghi tốt với điều kiện khí hậu của các vùng miền ở Việt Nam. Giống này có tầm vóc cao to hơn ngỗng cỏ. Đặc điểm dễ nhận diện nhất ở đầu to, mỏ đen thẫm, trước trán có mào lớn lồi ra rõ rệt, ở giữa có vằn vàng. Kiểu giống đầu con sư tử nên chúng được gọi là ngỗng sư tử đầu.
Ngỗng có lông màu xám thẫm, xương to, thịt hơi trắng. Ngực chúng khá dài và hơi hẹp.
Từ 7 – 8 tháng tuổi chúng bắt đầu đẻ trứng. Năng suất trung bình từ 20 – 25 quả/con mái/năm.
Con đực trưởng thành có thể năng từ 6 – 7kg/con. Ngỗng cái đạt cân nặng từ 5 – 6kg/con.
Ngoài giống ngỗng thuần thì chúng còn được đem lai với ngỗng cỏ. Con lai có năng suất cao vượt trội, chất lượng thịt thơm ngon.
Nếu là trang trại lần đầu nuôi ngỗng, nên chọn mua giống ở địa chỉ uy tín.
Dựa vào các đặc điểm ngoại hình để chọn lựa:
Mua ngỗng giống ở thời điểm 1 tháng tuổi. Hoặc cùng lắm là 30 – 65 ngày tuổi là đẹp nhất. Khối lượng 1 con từ 85 – 100g.
Việc phân biệt giống cái và giống đực khá phức tạp nếu như chưa có kinh nghiệm. Cách đơn giản hay dùng nhất là kẹp giữa hai chân theo tư thế: cho chân ngỗng chổng lên trời. Dùng tay ấn xung quanh lỗ huyệt của chúng. Vạch phần lông ở đây ra, nếu thấy có dương vật thì là con cái. Khi được 1 tháng tuổi, dương vật đã gần 6 – 7mm.
Chăn nuôi theo quy mô trang trại đòi hỏi bà con phải quy hoạch với đầy đủ cơ sở vật chất, trang thiết bị. Hình thức bán tự do được áp dụng phổ biến hơn cả. Đàn ngỗng vừa có chuồng nhốt, vừa có sân chơi, bãi cỏ. Chuồng nuôi thông thoáng, phân tách các khu vực giống, hậu bị, thịt riêng biệt. Nuôi úm phải chuẩn bị quây úm, đèn sưởi, chất độn chuồng.Từ 1 – 7 ngày duy trì mật độ nuôi 10 – 15 con/m2. Từ 8 – 28 ngày duy trì 6 – 8 con/m2. Ngỗng trưởng thành duy trì mật độ nuôi theo điều kiện của từng trang trại.
Chuẩn bị máng ăn, máng uống đầy đủ. Máng ăn kích thước 45cm x 60cm x 2cm (25 – 30 con nhỏ).
Nguồn thức ăn
Thức ăn nuôi ngỗng rất đa dạng, được chia thành các nhóm khác nhau:
– Nhóm thức ăn tinh bột: thóc, ngô, kê, cao lương, cám gạo…
– Nhóm thức ăn thô xanh: cỏ mọc tự nhiên (cỏ hòa thảo, cỏ gà, cỏ chỉ, cỏ mật, cỏ ba lá…), cỏ voi, cỏ sả, thân lá cây lạc, cây bình linh…; Khoai lang, khoai tây, cà rốt, củ cải, bầu bí, thân cây chuối…
– Nhóm thức ăn giàu protein: đậu tương, lạc, đậu mèo, đậu xanh, khô dầu đậu tương, khô dầu lạc…; Nguồn protein động vật như: bột cá, bột máu, bột thịt xương, bột đầu tôm…
– Nhóm thức ăn cung cấp chất khoáng và vitamin: bột vỏ sò, vỏ hến, vỏ trứng, đá vôi, bột xương động vật, premix khoáng; Các loại premix vitamin được phép sử dụng theo tiêu chuẩn của nhà nước TCVN – 3142 – 79.
Định lượng và cách làm thức ăn nuôi ngỗng
Định lượng thức ăn cho ngỗng trong một ngày:
Ngày tuổi | Thức ăn (g/con/ngày) |
1 – 5 | 35 |
6 – 10 | 90 |
11 – 20 | 110 |
21 – 30 | 220 |
31 – 40 | 280 |
41 – 50 | 328 |
51 – 60 | 338 |
Ngỗng hậu bị 61 – 70 | 260 |
Ngỗng trưởng thành 71 – 75 | 330 |
Cân bằng các nhóm thức ăn cho ngỗng theo từng thời điểm phát triển, cụ thể:
Ngày tuổi | Thức ăn tinh, thức ăn hỗn hợp, cám viên (g/ngày) | Thức ăn tươi xanh (g/ngày) |
1 – 10 | 20 | 50 |
11 – 20 | 50 | 100 |
21 – 30 | 120 | 200 |
31 – 40 | 140 | 300 |
41 – 50 | 160 | 400 |
51 – 60 | 180 | 500 |
61 – 70 | 200 | 600 |
71 – 75 | 220 | 700 |
Chủ trang trại chăn nuôi hoàn toàn có thể chủ động sản xuất thức ăn cho ngỗng, tiết kiệm chi phí đầu vào. Bên cạnh đó, áp dụng các biện pháp chế biến tại chỗ nhằm nâng cao giá trị dinh dưỡng và tăng tính ngon miệng cho gia cầm.
– Đối với thức ăn thô xanh:
Chăn nuôi theo mô hình trang trại, bà con có thể thả ra đồng cỏ tự nhiên quy hoạch xung quanh chuồng nuôi hoặc thu hoạch cỏ về nhà. Cỏ tươi đem nghiền nhỏ, bỏ vào máng ăn hàng ngày cho ngỗng.
Quy mô đàn lớn, bà con có thể dự trữ bằng cách ủ xanh thức ăn cho chúng ăn dần. Phương pháp này giúp cho giá trị dinh dưỡng ít bị hao phí. Lại góp phần tăng tỷ lệ tiêu hóa nhờ sự lên men làm mềm của vi sinh vật có lợi. Một chiếc máy băm cỏ là cần thiết với các nông hộ, trang trại.
– Đối với thức ăn tinh:
Cách chế biến thức ăn tinh phổ biến nhất là ép thành cám viên nuôi ngỗng. Nguyên liệu ở trên đem nghiền nhỏ thành dạng bột. Sau đó phối trộn với nhau theo tỉ lệ và độ ẩm thích hợp. Cuối cùng, chỉ việc bỏ vào máy ép cám. Nguyên liệu đầu ra có thể điều chỉnh theo yêu cầu nhờ bộ phận mặt sàng đi kèm.
Viên cám sau khi ép rất chắc, tỉ lệ dinh dưỡng phân phối đồng đều. Như vậy, bà con không cần phải mua cám tiên tổng hợp bên ngoài mà vẫn giúp đàn ngỗng nuôi ăn ngon miệng.
Công thức chế biến cám viên cho ngỗng sư tử theo bảng sau:
Nguyên liệu | Ngỗng lớn (%) | Ngỗng vỗ béo (%) |
Thóc nghiền | 20 | |
Ngô nghiền | 35,5 | 65 |
Cám gạo | 7 | 20 |
Bột đỗ tương | 7 | 6 |
Khô dầu lạc | 2 | |
Bột cá nhạt | 3 | 4 |
Bột cỏ | 20 | |
Bột sò | 3,5 | |
Bột xương | 1,5 | |
Bột đá | 1 | |
Muối | 0,5 | |
Premix khoáng | 1 | |
Premix vitamin | 1 | |
Dầu mỡ | 2 |
Ngỗng cần tiêu hóa hàm lượng chất xơ cao hơn các loại gia cầm khác. Vì thế, hàng ngày, bà con cung cấp cho chúng thức ăn thô xanh, rau cỏ nhiều hơn.
Ngỗng sơ sinh – 4 tháng tuổi
1 tháng đầu tiên quây úm ngỗng con bằng đèn sưởi và lồng úm gà. Sử dụng bóng điện 75 – 100w/m2. Mật độ thả 30 – 40 con. Nhiệt độ giảm dần từ tuần 1 đến tuần 4. Tuần 1 là 32 – 35 độ. Tuần 4 ở mức 23 – 25 độ – nhiệt độ môi trường.
Khẩu phần thức ăn của ngỗng con: 70% ngô thóc nghiền, 15% cám, 5% protein động vật, 8% protein thực vật, 2% thức ăn bổ sung. Nhưng 1 – 2 đầu tiên không nên cho chúng ăn protein động vật ngay.Dùng xà lách, rau diếp, cỏ non thái nhỏ trộn cùng cám gạo cho ngỗng con.
Ngỗng hậu bị, ngỗng thịt
Tuy tầm vóc to lớn nhưng giống ngỗng này lại có thực quản mỏng. Nếu nhồi, vỗ béo quá nhiều thức ăn sẽ khiến thực quản dễ bị sây sát, thậm chí là vỡ thực quản. Vì thế chúng không thích hợp để nuôi nhồi vỗ béo quá nhiều giống như ngan.
Tiến hành vỗ béo cho ngỗng từ sau 50 ngày tuổi. Yêu cầu chuồng nuôi yên tĩnh, độ ẩm từ 75 – 80%. Cho chúng ăn thức ăn giàu dinh dưỡng, nước sạch. (Tham khảo lại công thức vỗ béo thích hợp ở bảng trên). Sau 10 ngày đầu vỗ béo, chúng phải luôn được ăn no đủ. Khi đạt mức béo vừa phải, cho ăn thức ăn ngon, giàu dinh dưỡng.
Thời gian vỗ béo ngỗng trong khoảng 15 ngày. Không nên kéo dài thời gian vỗ béo, nếu không tỉ lệ tăng trọng cũng rất thấp, năng suất kém. Ngỗng thịt xuất chuồng khi được 75 – 90 ngày nuôi. Tỷ lệ thịt xẻ từ 60 – 66%.
Trường hợp nuôi hậu bị đẻ trứng, lấy con giống không áp dụng phương pháp vỗ béo. Chọn tỉ lệ trống mái: 1/4 – 1/5. Giai đoạn này chủ yếu là nuôi “cầm xác”, tránh để chúng béo lên.
Nuôi ngỗng sư tử cung cấp ra thị trường cả con giống, thịt và trứng. Giá tham khảo cho bà con như sau:
Ngỗng sư tử ăn nhiều và khả năng tiêu hóa rất tốt. Nếu điều kiện nuôi và nguồn thức ăn đủ, giàu dinh dưỡng, chỉ sau 1 tháng chúng đã lớn gấp 20 lần lúc mới nở. Trong khi đó, gà phải mất ít nhất 2,5 tháng. Đến 6 – 7 tháng, giống ngỗng sư tử đầu vẫn tiếp tục phát triển, thân hình to vạm vỡ. Có thể thấy, giống ngỗng này hoàn toàn thích hợp và nhiều tiềm năng để phát triển thành mô hình trang trại quy mô lớn.
Kỹ thuật Nuôi úm ngỗng con: Từ lâu nay, khi chăn nuôi các bà con ta có rất ít người có kinh nghiệm gột ngỗng con, úm ngỗng giống. Những người này thường ít phổ biến kinh nghiệm cho những người khác. Có thể đây là một trong những nguyên nhân chính khiến nghề nuôi ngỗng của ta qua bao thế kỷ vẫn chưa phát triển được. Thật ra việc gột ngỗng con không phải là một việc làm quá phức tạp.
Ngỗng có thể chăn thả ở những cánh đồng đã gặt, bãi cỏ ven đê, bờ cỏ ven mương máng nhưng đó là những bãi chăn quanh năm của ngỗng. Ngỗng thích vặt cỏ non, cỏ già hay quá cao chúng chỉ ăn khi không còn cỏ khác. Có thể lùa ngỗng đi chăn theo các mương máng thường có nhiều cỏ non và hạt cỏ.
Ngỗng sư tử là loài vật nuôi rất nhanh lớn và dễ nuôi. Thịt ngỗng thơm ngon và cho giá trị kinh tế cao nên ngày càng được nuôi nhiều. Chăn nuôi ngỗng sư tử đang được bà con đầu tư mở rộng cả về quy mô và chất lượng.
Các loại thức ăn chủ yếu nuôi ngỗng sư tử thường là các loại cỏ và thức ăn giàu chất dinh dưỡng. Một trong những loại cỏ phổ biến được dùng làm thức ăn cho ngỗng sư tử là cỏ đẳng sắn. Cỏ đẳng sắn có chứa nhiều chất xơ và chất dinh dưỡng, giúp tăng cường hệ tiêu hóa của ngỗng và cung cấp năng lượng cho chúng. Ngoài ra, cỏ lúa mì, cỏ cỏng và cỏ mỡ cũng là những lựa chọn thức ăn phổ biến khác.
Để phòng ngừa, không nên nuôi chung ngỗng với các loại gia cầm khác như ngan hoặc vịt. Quá trình vệ sinh chuồng trại và các dụng cụ chăn nuôi cần được thực hiện đều đặn và sạch sẽ.